Scholar Hub/Chủ đề/#co giật nửa mặt/
Co giật nửa mặt, hay hội chứng co giật nửa mặt (HFS), là một rối loạn thần kinh gây các cơn co rút không chủ ý của cơ bắp trên một bên mặt, thường do mạch máu chèn ép dây thần kinh mặt. Triệu chứng bắt đầu từ co giật nhẹ ở mí mắt, có thể lan ra toàn bộ một bên mặt. Chẩn đoán dựa trên khám lâm sàng và xét nghiệm hình ảnh. Điều trị bằng tiêm botulinum toxin (Botox) hoặc phẫu thuật giải ép vi mạch, cùng quản lý stress, có thể giúp kiểm soát hội chứng này. Lời khuyên từ chuyên gia y tế rất cần thiết.
Co Giật Nửa Mặt: Tổng Quan
Co giật nửa mặt, hay còn gọi là hội chứng co giật nửa mặt (HFS - Hemifacial Spasm), là một rối loạn thần kinh gây ra những cơn co rút không chủ ý của các cơ bắp trên một bên mặt. Hội chứng này thường không gây đau đớn nhưng có thể ảnh hưởng đáng kể đến chất lượng cuộc sống và sự tự tin của người mắc phải.
Nguyên Nhân Gây Ra Co Giật Nửa Mặt
Nguyên nhân chính của co giật nửa mặt thường là do mạch máu chèn ép lên dây thần kinh mặt (dây VII). Khi mạch máu này chạm vào dây thần kinh, nó gây ra những xung điện bất thường, dẫn đến co thắt cơ bắp. Một số trường hợp hiếm có thể xuất phát từ khối u hoặc tổn thương mạch máu não.
Các yếu tố nguy cơ khác có thể bao gồm tổn thương dây thần kinh do viêm nhiễm hoặc sau các phẫu thuật vùng mặt.
Triệu Chứng Của Co Giật Nửa Mặt
Triệu chứng thường bắt đầu từ sự co giật nhẹ ở mí mắt. Qua thời gian, những cơn co giật có thể lan rộng ra một bên mặt, ảnh hưởng đến miệng và cơ bắp vùng má. Các cơn co giật thường không liên tục, có thể tắt dần nhưng cũng có thể xảy ra liên tiếp.
Chẩn Đoán Co Giật Nửa Mặt
Chẩn đoán co giật nửa mặt thường dựa vào việc khám lâm sàng. Bác sĩ có thể yêu cầu các xét nghiệm hình ảnh như chụp cộng hưởng từ (MRI) để xác định có sự chèn ép của mạch máu vào dây thần kinh hoặc loại trừ các nguyên nhân khác như khối u.
Điều Trị Co Giật Nửa Mặt
Phương pháp điều trị thường bắt đầu với tiêm botulinum toxin (Botox) để làm yếu các cơ bắp bị ảnh hưởng, giúp giảm co giật. Tuy nhiên, hiệu quả của tiêm botulinum toxin có thể chỉ kéo dài từ vài tháng đến nửa năm, và cần lặp lại điều trị.
Trong trường hợp nặng hơn hoặc khi botulinum toxin không hiệu quả, phẫu thuật giải ép vi mạch có thể được khuyến nghị. Phẫu thuật này nhằm di chuyển mạch máu ra xa dây thần kinh mặt để giảm các cơn co thắt.
Phòng Ngừa Và Quản Lý Co Giật Nửa Mặt
Mặc dù không có phương pháp phòng ngừa tuyệt đối cho co giật nửa mặt, việc quản lý stress và duy trì sức khỏe tổng thể có thể giúp làm giảm tần suất và mức độ nghiêm trọng của các cơn co giật. Sự giám sát và điều trị kịp thời của các chuyên gia y tế cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát hội chứng này.
Kết Luận
Co giật nửa mặt là một tình trạng thần kinh có thể gây khó chịu và ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống. Hiểu rõ nguyên nhân, triệu chứng và các phương pháp điều trị có thể giúp người bệnh tìm ra cách quản lý và giảm thiểu những ảnh hưởng tiêu cực của hội chứng này. Luôn tìm kiếm sự tư vấn từ chuyên gia y tế nếu xuất hiện các triệu chứng nghi ngờ.
Tiêm botulinum toxin tại chỗ để điều trị loạn trương lực cơ và co giật nửa mặt Movement Disorders - Tập 2 Số 4 - Trang 237-254 - 1987
Tóm tắtĐiều trị bằng thuốc cho loạn trương lực cơ thường có kết quả không hoàn toàn và thường không thành công. Liệu pháp phẫu thuật ngoại biên có sẵn cho một số loạn trương lực cơ khu trú, nhưng có thể chỉ mang lại sự giảm tạm thời và có thể có biến chứng không chấp nhận được. Chúng tôi đã sử dụng tiêm tại chỗ botulinum toxin vào các cơ thích hợp để điều trị loạn trương lực cơ khu trú hoặc phân đoạn ở 93 bệnh nhân với bệnh rối loạn cơ thị, co thắt nháy mắt, loạn trương lực cơ hàm mặt (OMD), loạn trương lực chi, loạn trương lực lưỡi và loạn trương lực khan giọng dystonia, cùng với bốn bệnh nhân có co giật nửa mặt. Giảm đáng kể các triệu chứng vận động đã được quan sát thấy ở 69% bệnh nhân bị co thắt nháy mắt và 64% bệnh nhân bị rối loạn cơ thị; 74% của nhóm này với đau đã có cảm giác giảm đau. Cảm giác giảm triệu chứng đã được nhận thấy ở hầu hết bệnh nhân với OMD và loạn trương lực chi, và tất cả với loạn trương lực lưỡi, loạn trương lực khan giọng và những người có co giật nửa mặt. Lợi ích trung bình là 2½‐3 tháng ban đầu; tuy nhiên một số bệnh nhân được trải nghiệm giảm lâu hơn với các lần tiêm sau. Các tác dụng phụ là thoáng qua, mặc dù 2 bệnh nhân phát triển kháng thể chống lại độc tố và chúng tôi đã ghi nhận bằng chứng cho các tác dụng từ xa ở những người khác. Cách tiếp cận này của việc làm yếu hóa học các cơ co giật ở loạn trương lực cơ khu trú mang lại nhiều lợi thế hơn so với liệu pháp dược lý và liệu pháp phẫu thuật. Kinh nghiệm bổ sung là cần thiết để khám phá liều lượng thích hợp và khả năng các tác dụng phụ lâu dài.
#botulinum toxin #loạn trương lực cơ #co giật nửa mặt #điều trị tại chỗ #triệu chứng vận động #rối loạn cơ thị #co thắt nháy mắt #loạn trương lực cơ hàm mặt #loạn trương lực chi #loạn trương lực lưỡi #loạn trương lực khan giọng
KẾT QUẢ ĐIỀU TRỊ VI PHẪU THUẬT GIẢI ÉP XUNG ĐỘT MẠCH MÁU THẦN KINH VÙNG GÓC CẦU TIỂU NÃO Mục tiêu: Đặc điểm lâm sàng, kết quả điều trị vi phẫu thuật xung đột mạch máu thần kinh VII, V vùng góc cầu tiểu não. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 106 bệnh nhân được chẩn đoán và phẫu thuật tại trung tâm phẫu thuật thần kinh bệnh viện Việt Đức trong 3 năm (từ tháng 1 năm 2019 đến tháng 12 năm 2021). Nghiên cứu mô tả, hồi cứu kết hợp tiến cứu. Kết quả: Tỷ lệ điều trị phẫu thuật xung đột mạch máu và phức hợp thần kinh V, VII ở nữ gấp trên 2 lần nam giới. Xung đột mạch máu thần kinh chủ yếu ở vùng gần thân não. Tỷ lệ điều trị hiệu quả 89,62%, biến chứng hay gặp nhất là mất cảm giác nửa mặt tạm thời 8,62% giảm thính lực tạm thời 22,92%. Kết luận: Nguyên nhân chủ yếu gây xung đột thần kinh V là động mạch tiểu não trên (55,17%), với thần kinh VII là động mạch tiểu não trước dưới (52,05). Phẫu thuật giải ép mạch máu thần kinh mang đến hiệu quả tốt cho bệnh nhân. Mất cảm giác nửa mặt mặt tạm thời 8,62%, giảm thính lực tạm thời 22,92%... là biến chứng hay gặp tạm thời trong mổ.
#Đau dây V #co giật nửa mặt
33. Áp dụng đường mổ lỗ khoá sau xoang sigma (keyhole retrosigmoid) điều trị bệnh lý vùng góc cầu tiểu não Nghiên cứu nhằm đánh giá ban đầu áp dụng đường mổ lỗ khoá sau xoang sigma trong điều trị bệnh lý xung đột mạch máu thần kinh vùng góc cầu tiểu não. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu tiến cứu loạt bệnh trên 36 bệnh nhân được phẫu thuật bằng đường mổ lỗ khoá sau xoang sigma điều trị đau dây V và co giật nửa mặt tại khoa Ngoại thần kinh - Cột sống, Bệnh viện Đại học Y Hà Nội từ tháng 1/2023 đến tháng 9/2023. Kết quả cho thấy, Bệnh lý đau dây V và co giật nửa mặt chiếm tỉ lệ 66,67% và 33,33% tương ứng. Kích thước đường rạch da trung bình là 3,5 ± 1,6cm và diện tích mở nắp xương sọ trung bình là 3,7 ± 0,5cm2. Theo dõi sau 1 tháng, tỉ lệ khỏi hẳn đau dây V chiếm 91%, tỉ lệ đỡ và giảm chiếm 9%. Chất lượng cuộc sống của bệnh nhân co giật nửa mặt cải thiện đáng kể sau mổ với p < 0,05. Đường mổ ít xâm lấn sau xoang sigma là một đường mổ an toàn và hiệu quả, có thể sử dụng trong điều trị bệnh lý đau dây V và co giật nửa mặt. Với sử dụng hệ thống nội soi hỗ trợ trong mổ giúp phẫu thuật viên có hình ảnh trong mổ với độ phân giải cao, có thể tiếp cận được các vị trí sâu, góc khuất, và hẹp của vùng góc cầu tiểu não mà kính vi phẫu khó tiếp cận tới, đồng thời hạn chế vén não trong mổ.
#Đường mổ ít xâm lấn sau xoang sigma #góc cầu tiểu não #đau dây V #co giật nửa mặt
GIÁ TRỊ CỦA DẤU HIỆU PREVEDELLO TRÊN CỘNG HƯỞNG TỪ TRONG CHẨN ĐOÁN CO GIẬT NỬA MẶT NGUYÊN PHÁT Mục tiêu: Đánh giá giá trị của dấu hiệu Prevedello trên chuỗi xung 3D T2W, 3D TOF của cộng hưởng từ (CHT) trong chẩn đoán xung đột thần kinh mạch máu dây thần kinh mặt (VII). Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 64 bệnh nhân (BN) được chẩn đoán co giật nửa mặt nguyên phát được phẫu thuật vi giải ép thần kinh mạch máu tại Bệnh viện Hữu nghị Việt Đức từ tháng 01/2022 - 01/2024. Dấu hiệu Prevedello được đánh giá trên CHT nhằm phân tích giá trị chẩn đoán xung đột mạch máu thần kinh mặt. Kết quả: Trong số 64 BN, đa số là nữ (75,4%) với độ tuổi trung bình 51,94. Mạch máu xung đột nhiều nhất là AICA (64,6%), tiếp sau đó là PICA (18,5%) và VA (15,4%). Có 64 xung đột mạch máu thần kinh mặt được phát hiện, trong có 58 trường hợp chẩn đoán đúng cùng bên với triệu chứng với độ nhạy 90,62%, độ đặc hiệu 93,75%, giá trị chẩn đoán dương tính 99,64%, độ chính xác 90,78%. Kết luận: Dấu hiệu Prevedello rất hữu ích trong xác định xung đột thần kinh mạch máu ở các BN co giật nửa mặt. Khi có dấu hiệu này, kết hợp với thông tin lâm sàng, đánh giá thường quy, làm tăng độ nhạy của MRI lên hơn 90% mà không làm tăng nguy cơ gây hại cho BN hoặc phát sinh thêm chi phí.
#Co giật nửa mặt #Cộng hưởng từ #Xung đột thần kinh mạch máu #Dấu hiệu Prevedello #Đoạn đi ra rễ
5. Kết quả điều trị vi phẫu thuật bệnh lí co giật mặt với nội soi hỗ trợ tại Bệnh viện Việt Đức Co giật nửa mặt (hemifacial spasm) biểu biện bởi các chuyển động giật rung hay co cứng tiến triển, không tự chủ, không thành cơn của các cơ chịu sự chi phối của thần kinh VII ở một nửa bên mặt. Nội soi hỗ trợ vi phẫu thuật giải ép mạch máu thần kinh trong điều trị bệnh lí co giật nửa mặt đang là xu hướng mới ở Việt Nam. Nghiên cứu mô tả tiến cứu 11 bệnh nhân co giật nửa mặt được vi phẫu thuật giải ép có nội soi hỗ trợ tại Bệnh viện Việt Đức từ 1/2021 đến 12/2021. Nguyên nhân hay gặp nhất gây xung đột mạch máu thần kinh là động mạch tiểu não trước dưới chiếm 72,7%. Triệu chứng lâm sàng sau phẫu thuật: 45,45% hết triệu chứng các trường hợp, 54,55% giảm triệu chứng. Trong 6 trường hợp được đánh giá kết quả phẫu thuật bằng thang điểm HFS, có sự giảm rõ rệt điểm HFS: lâm sàng từ 12 - 16 điểm trước mổ; giảm còn 0 - 4 điểm sau mổ); có sự giảm rõ rệt điểm HFS - Chất lượng cuộc sống 40 - 72 điểm trước mổ; giảm còn 0 - 16 điểm sau mổ). Vi phẫu thuật giải ép mạch máu thần kinh có áp dụng nội soi hỗ trợ là biện pháp hiệu quả trong điều trị co giật mặt, ít biến chứng. Bộ câu hỏi HFS - Lâm sàng và Chất lượng cuộc sống có thể áp dụng trong theo dõi và đánh giá kết quả sau phẫu thuật.
#Co giật nửa mặt #nội soi hỗ trợ #vi phẫu giải ép mạch máu thần kinh